Kỷ nguyên tàu buồm Tàu_frigate

Nguồn gốc

Tranh vẽ tàu frigate Boudeuse của Louis Antoine de Bougainville

Thuật ngữ "frigate" (theo tiếng Anh; tiếng Ý gọi là fregata; tiếng Tây Ban NhaBồ Đào Nha: fragata; tiếng Hà Lan: fregat) có xuất xứ từ vùng Địa Trung Hải vào cuối thế kỷ 15, dùng để chỉ một kiểu tàu Ga-lê nhẹ hơn, có tay chèo và buồm cùng một dàn vũ khí nhẹ, được chế tạo dành cho tốc độ và sự cơ động.[9]

Vào năm 1583, trong cuộc Chiến tranh Tám mươi năm, triều đại Habsburg Tây Ban Nha giành lại được vùng đất Nam Hà Lan từ những người Hà Lan chống đối; nhanh chóng đưa đến việc chiếm đóng các cảng để sử dụng làm căn cứ cho các tàu lùng của người Dunkirk nhằm tấn công tàu bè của Hà Lan và đồng minh của họ. Để đạt được điều này, họ đã phát triển những tàu chỉ chạy buồm nhỏ, cơ động, được gọi là frigate. Sự thành công của kiểu tàu của người Dunkirk đã ảnh hưởng đến việc thiết kế tàu của Hà Lan và hải quân các nước khác phải chiến đấu với họ; nhưng bởi vì đa số hải quân thường trực của các nước đòi hỏi tàu có tầm hoạt động xa hơn những chiếc frigate người Dunkirk có thể cung cấp, từ này được nhanh chóng áp dụng rộng rãi cho mọi tàu chiến chỉ chạy buồm tương đối nhanh và thanh lịch. Ngay cả chiếc tàu chiến Anh HMS Sovereign of the Seas đồ sộ cũng được mô tả như là "một chiếc frigate thanh nhã" sau khi được cải biến vào năm 1651.

Hải quân của Cộng hòa Hà Lan là hải quân thường trực đầu tiên chế tạo những tàu frigate đi biển khơi. Họ có ba nhiệm vụ chính trong cuộc đối đầu với Tây Ban Nha: bảo vệ các tàu buôn Hà Lan ngoài biển, phong tỏa các cảng vùng Flanders do đối phương chiếm giữ để đánh phá thương mại và ngăn chặn tàu lùng đối phương, và chống lại hạm đội Tây Ban Nha để ngăn cản việc đổ bộ binh lính. Hai nhiệm vụ đầu đòi hỏi tốc độ cao và mớn nước thấp để hoạt động ở vùng nước nông chung quanh Hà Lan, và khả năng mang theo đủ tiếp liệu để duy trì cuộc phong tỏa. Nhiệm vụ thứ ba yêu cầu hỏa lực mạnh đủ để chống lại tàu chiến đối phương. Những chiếc frigate lớn hơn đầu tiên có khả năng chiến trận được chế tạo vào khoảng thập niên 1600 tại HoornHà Lan.[10] Vào những giai đoạn cuối cùng của cuộc Chiến tranh Tám mươi năm, người Hà Lan đã chuyển hoàn toàn từ các tàu chiến nặng vốn còn được Anh và Tây Ban Nha sử dụng sang những tàu frigate nhẹ hơn, mang khoảng 40 pháo và nặng khoảng 300 tấn. Hiệu quả của các tàu frigate Hà Lan được thấy rõ trong Trận the Downs năm 1639, kích thích hầu hết hải quân các nước khác, đặc biệt là Anh, áp dụng những sáng kiến tương tự.

Hạm đội được Khối thịnh vượng chung Anh Quốc chế tạo trong 1650 nói chung bao gồm những tàu được mô tả là "frigate", những chiếc lớn nhất là những "frigate lớn" hai sàn pháo thuộc hạng ba. Mang theo 60 khẩu pháo, những tàu chiến này có kích cỡ và khả năng tương đương với những "tàu chiến lớn" vào thời đó; tuy nhiên, hầu hết các tàu frigate khác vào lúc đó được sử dụng như tàu tuần dương nhanh và độc lập. Thuật ngữ "frigate" được áp dụng cho thiết kế lườn tàu dài, có liên quan trực tiếp đến tốc độ, và đến lượt nó cũng giúp vào việc phát triển chiến thuật tấn công mạn tàu trong hải chiến.

Vào lúc này một thiết kế khác được phát triển, áp dụng trở lại mái chèo để tạo thành những tàu galley frigate như chiếc Charles Galley năm 1676 được xếp loại là tàu 32 pháo hạng năm, nhưng cũng có 40 mái chèo đặt bên dưới sàn tàu trên để vận hành con tàu trong hoàn cảnh không có gió thuận tiện.

Tại Pháp, thuật ngữ "frigate" trở thành một động từ có nghĩa là 'được đóng dài và thấp', và là một tính từ, khiến cho càng thêm lẫn lộn.[11]

Trong hệ thống xếp hạng của Hải quân Hoàng gia vào giữa thế kỷ 18, từ "frigate" về phương diện kỹ thuật được giới hạn trong những tàu một sàn pháo thuộc hạng năm, cho dù những chiếc frigate nhỏ 28 pháo được xếp hạng sáu.[9]

Thiết kế cổ điển

Một chiếc frigate lớp Magicienne

Tàu frigate chạy buồm cổ điển, vốn nổi tiếng cho đến ngày nay do vai trò của chúng trong cuộc chiến tranh Napoleon, có nguồm gốc từ những phát triển của Pháp vào khoảng gần giữa thế kỷ 18. Chiếc Médée do Pháp chế tạo vào năm 1740 thường được xem là kiểu mẫu đầu tiên của kiểu tàu này. Những con tàu này có các cánh buồm vuông trên cả ba cột buồm, và mang toàn bộ dàn vũ khí chính trên một sàn tàu liên tục duy nhất là sàn trên. Sàn bên dưới, gọi là "sàn pháo", giờ đây không mang vũ khí và phục vụ như một "sàn ngủ" nơi thủy thủ sinh sống, và trong thực tế được đặt bên dưới mực nước trên những tàu frigate mới. Những tàu frigate chạy buồm mới có khả năng chiến đấu với toàn bộ pháo bên mạn khi mà biển động đến mức những tàu hai sàn pháo tương đương phải đóng những cửa pháo trên sàn dưới, điều được chứng minh là có tính quyết định trong Hoạt động ngày 13 tháng 1 năm 1797. Giống như những chiếc 74 lớn hơn cũng được phát triển cùng thời gian này, tàu frigate mới chạy buồm rất tốt và là những tàu chiến đấu tốt nhờ kết hợp thân tàu dài và thượng tầng kiến trúc thấp so với những tàu có kích cỡ và hỏa lực tương đương.

Hải quân Hoàng gia Anh chiếm được một số tàu frigate mới của Pháp trong cuộc Chiến tranh Kế vị Áo (1740- 1748), và đã bị ấn tượng bởi chúng, đặc biệt là những khả năng điều khiển ven bờ. Họ nhanh chóng chế tạo những bản sao và bắt đầu áp dụng kiểu tàu này cho nhu cầu riêng của họ, đặt ra một tiêu chuẩn cho các tàu frigate như là một thế lực lớn. Những chiếc frigate Anh Quốc đầu tiên mang 28 pháo, bao gồm một dàn 24 khẩu 9 pounder bố trí ở sàn trên và bốn khẩu nhỏ hơn bố trí trên sàn sau; nhưng nhanh chóng phát triển thành tàu hạng năm có 32 hay 36 pháo, bao gồm một dàn 26 khẩu 12 pounder và sáu đến mười pháo nhỏ hơn bố trí trên sàn sau và cấu trúc thượng tầng phía trước. Bắt đầu từ khoảng năm 1778, một kiểu frigate "hạng nặng" lớn hơn được phát triển với dàn pháo chính 26 hoặc 28 khẩu 18 pounder, và mười pháo nhỏ hơn cũng được đặt trên sàn sau và cấu trúc thượng tầng.

Những tàu frigate của Hải quân Hoàng gia vào cuối thế kỷ 18 còn bao gồm lớp Perseverance thế hệ 1780, kích thước vào khoảng 900 tấn và mang 36 pháo; lớp tàu chiến thành công này được tiếp nối bởi nhiều lớp khác có trọng lượng trên 1.000 tấn và mang 38 pháo.

Vào năm 1797, ba trong số sáu tàu chiến lớn đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ là những tàu frigate 44 pháo (hoặc "siêu-frigate"), trong thực tế mang từ 56 đến 60 pháo 24 pounder nòng dài và carronade (pháo đường kính lớn tầm ngắn) 36 pounder hay 48 pounder trên hai sàn tàu, và chúng đặc biệt mạnh mẽ và chắc chắn. Những con tàu này được vũ trang mạnh đến mức chúng thường được xem là tương đương với tàu chiến tuyến nhỏ; và sau một loạt các tổn thất vào lúc mở đầu cuộc Chiến tranh 1812, các chỉ thị tác chiến của Hải quân Hoàng gia đã ra lệnh cho các tàu frigate Anh (thường là 38 pháo hay ít hơn) không được đối đầu với các tàu frigate Mỹ nếu không có ưu thế vượt trội hơn tỉ lệ 2:1.

Chiếc USS Constitution, được hải quân Mỹ bảo tồn như một tàu bảo tàng, là chiếc tàu frigate được đưa vào hoạt động cổ nhất còn đang nổi, và là ví dụ còn sót lại của một tàu frigate thời kỷ nguyên tàu buồm. Constitution cùng hai tàu chị em USS PresidentUSS United States được đóng để đối phó với nguy cơ cướp biển tại vùng bờ biển Barbary, kết hợp với Đạo luật Hải quân 1794. Khi được đóng, ba chiếc frigate lớn này có một kiểu dáng đặc trưng, hạn chế sự lồi lỏm của sống tàu và cải thiện hiệu quả thủy động lực học.[12]

Lườn tàu được thiết kế để trọng lượng các khẩu pháo được đặt trên chính sống tàu. Joshua Humphreys đã đề nghị chỉ sử dụng sồi xanh, một loại cây chỉ mọc tại Bắc Mỹ, vào việc đóng tàu. Phương pháp này sử dụng những nẹp chéo gồm tám chiếc mỗi bên đặt ở một góc 45o. Những sườn ngang bằng sồi xanh rộng khoảng 60 cm (2 ft) và dày khoảng 30 cm (1 ft) giúp giữ lại dạng của lườn tàu, làm giảm sự co giãn và giảm thiểu va đập.[12] Những ý tưởng này được xem là cách mạng vào giai đoạn cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Phương pháp vỏ tàu dày ba lớp được sử dụng trong đó những tấm ván sàn dọc theo mạn của lườn tàu được đặt ngang qua sườn ngang, tạo nên một mô hình bắt chéo hoặc ô bàn cờ. Mạn lườn tàu có thể dày cho đến 64 cm (25 inch), và có thể hấp thu những hư hại đáng kể. Sức mạnh của cấu trúc được giằng nối này khiến cho USS Constitution có được biệt danh "Old Ironsides" (hông sắt cũ).

Vai trò

USS Abraham Lincoln, một tàu frigate bọc sắt được hư cấu, nhưng tiêu biểu, trong tiểu thuyết Hai vạn dặm dưới đáy biển của nhà văn Jules Verne.

Frigate có lẽ là kiểu tàu chiến làm việc nhọc nhằn nhất trong kỷ nguyên tàu buồm. Trong khi nhỏ hơn một tàu chiến tuyến, chúng là những đối thủ chắc chắn so với một số lượng lớn tàu xà-lúppháo hạm, không kể đến số tàu lùng hay tàu buôn. Có khả năng mang theo dự trữ trong sáu tháng, chúng có tầm hoạt động rất xa; và những tàu chiến lớn hơn frigate được cho là có giá trị không thể đưa ra hoạt động độc lập.

Frigate phục vụ tuần tiễu cho hạm đội, tiến hành các hoạt động cướp phá tàu buôn đối phương và tuần tra, truyền đạt mệnh lệnh, bổ nhiệm quan chức. Tàu frigate thường chiến đấu một mình hoặc số lượng ít với tàu frigate đối phương. Chúng thường tránh đụng độ với tàu chiến tuyến; và ngay cả trong một trận giao chiến giữa các hạm đội, quy ước là tàu chiến tuyến sẽ không nổ súng vào tàu frigate đối phương trừ khi bị tấn công trước. Phục vụ trên tàu frigate là một vị trí được sĩ quan trong hải quân Hoàng gia mong muốn, vì tàu frigate thường xuyên được đưa ra hoạt động, có nghĩa là có nhiều cơ hội vinh quang, thăng tiến, và được thưởng tiền.

Frigate trang bị vũ khí từ 22 pháo trên một sàn tàu cho đến 60 pháo trên hai sàn tàu. Vũ khí thông thường là 32 đến 44 pháo nòng dài, cỡ từ 8 pounder đến 24 pounder (3,6 đến 11 kg), cùng một ít pháo carronade. Không giống như những tàu chiến lớn hơn được đưa về làm dự bị trong thời bình, tàu frigate được giữ lại phục vụ như là biện pháp tiết kiệm chi phí, đồng thời cung cấp kinh nghiệm cho thuyền trưởng và sĩ quan vốn sẽ có ích trong thời chiến. Frigate còn có thể chở theo thủy binh để đổ lên tàu đối phương hay hoạt động trên bờ.

Frigate tiếp tục là một yếu tố quan trọng trong hải quân các nước cho đến giữa thế kỷ 19. Những chiếc tàu chiến bọc sắt đầu tiên được xếp là "frigate" do số lượng pháo mà chúng mang theo. Tuy nhiên, thuật ngữ thay đổi khi vật liệu sắt và động lực hơi nước trở thành điều bình thường, và vai trò của frigate được tiếp nối trước hết là bởi tàu tuần dương bảo vệ, và sau đó là bởi tàu tuần dương hạng nhẹ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tàu_frigate http://www.destroyersonline.com/usndd/fftypes.htm? http://www.prinzeugen.com/FRIND.htm http://www.greatgridlock.net/Sqrigg/squrig2.html http://www.battleships-cruisers.co.uk/frigates.htm http://www.qdnd.vn/QDNDSite/Search/Search.aspx/?ta... http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/10/90/90/1... http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/115/115/11... http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/115/115/11... http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/115/115/11... http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/115/115/11...